Người Dao là một dân tộc thiểu số trong số 54 dân tộc ở Việt Nam. Dân số của người Dao không đông nhưng các bản làng của họ trải rộng tại các miền Núi của phía Bắc như Cao Bằng, Hà Giang, Lao Cai, Yên Bái, Tuyên Quang và một số tỉnh trung du như: Phú Thọ, vĩnh Phúc, Hòa Bình và miền biển Quảng Ninh (người Dao Thanh Y). Dân tộc Dao cũng là dân tộc thiểu số ở Myanma, Thái Lan và Lào.
Dân tộc người Dao chia thành nhiều nhóm khác nhau. Mỗi nhóm đều có phong tục tập quán riêng biệt. Rõ rệt nhất là qua trang phục của họ như: Dao Đỏ, Dao Trắng, Dao Thanh Y, Dao quần chẹt, Dao áo dài. Tuy có sự khác biệt trong trang phục nhưng ngôn ngữ của họ là thống nhất để đảm bảo mối quan hệ gắn kết trong cộng đồng người Dao với nhau.
Phong tục tín ngưỡng
Người Dao có phong tục thờ tổ tiên là Bàn Hồ. Xác định dòng họ và thứ bậc của người Dao qua tên đệm. Ngày nay thục Ma chay của người Dao vẫn theo tục lệ từ xa xưa. Vài vùng có phong tục hỏa táng cho người chết từ 12 tuổi trở lên. Tục ở rể có thời hạn và vĩnh viễn.
Bàn Hồ
Bàn Hồ là nhân vật huyền thoại, thủy tổ của dân tộc Dao, đã được nhắc tới trong truyện kể dân gian, thần tích và các truyện thơ, trong đó đặc biệt phải kể tới sách "Quá Sơn bảng văn, Bàn Hồ (truyện thơ) và Đặng hành và Bàn Đại Hộ (truyện thơ). Các tác phẩm nêu trên vừa được truyền miệng trong dân gian, vừa được các trí thức người Dao ghi chép thành sách bằng chứ Nôm Dao (kiểu chữ dùng mẫu tự Trung Quốc để ghi tiếng Dao).
Quá Sơn bảng văn (hay Bảng Văn, Bình Hoàng khoán điệp) được viết trên tấm vải dài, rìa được đệm vải cho cứng chắc. Toàn bộ tài liệu này được ghi bằng chữ Nôm Dao, hai đầu có vẽ cảnh triều đình, vua ngồi trên ngai vàng, dưới chân là con chó Bàn Hồ, nội dung của Quá Sơn bảng văn có thể tóm tắt lại như sau:
Bàn Hồ là con long khuyển mình dài ba thước, lông đen vằn vàng, mướt như nhung, từ trên trời giáng xuống trần, được Bình Vương yêu quý, nuôi trong cung vua. Một hôm bình vương nhận được chiếu thư của Cao Vương liền hội triều đình lại để bàn cách đánh lại Cao Vương. Trong khi mọi người còn đang yên lặng vì chưa tìm ra được kế gì, thì con long Khuyển Bàn Hồ nhảy ra phủ phục trước nhà vua xin đi giết Cao Vương. Trước khi Bàn Hồ đi, vua hứa nếu Bàn Hồ giết được Cao Vương thì sẽ gả công chúa cho. Bàn Hồ phải mất 7 ngày 7 đêm mới tới được chỗ Cao Vương. Cao vương thấy con chó Bàn Hồ từ chỗ Bình Vương tới thì cho đó là điềm may, liền mang Bàn Hồ về cung cấm nuôi. một hôm nhân lúc Cao Vương uống rượu say. Bàn Hồ cắn chết Cao Vương, ngoạm đầu mang về báo công với Bình Vương. Giữ lời hứa, Bình Vương gả con gái cho Bàn Hồ. Sau lễ cưới, Bàn Hồ mang vợ về núi Cối Kê (Chiết Giang), sau đó vợ chồng Bàn Hồ sinh được 6 con trai và 6 người con gái; 12 người con của Bàn Hồ đều được Bình Vương ban sắc thành 12 họ. Riêng con cả lấy họ cha, họ Bàn, còn các con khác lấy tên họ sau: Lan, Mãn, Uyển, Đặng, Trần, Lương, Lý, Tống, Phượng, Đối, Lưu, Triệu. Con cháu Bàn vương sinh sôi ra ngày một nhiều. Tới thời Hồng Vũ (1368-1398), bị hạn ba năm liền không có gì ăn, nhà vua cung cấp cho mỗi người một cái búa, một con dao để đốn rừng làm rẫy. Con cháu Bàn Hồ phát hết rừng núi của Bình Vương, khiến cho nhà vua phải cấp cho Quá Sơn bảng văn để phân tán đi các nơi tìm đất sinh sống.
Dao Đỏ
Dao Trắng
Nhà cửa
Người Dao cư trú chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc. Một số nhỏ di cư vào Tây Nguyên. Mặc dù sống phân tán và có nhiều nhóm Dao khác nhau nhưng chúng ta có thể nhận ra các nét đặc trưng về nhà ở của tộc người này. Về cơ bản, người Dao có ba loại hình nhà ở chính là: Nhà sàn (người Dao Trắng ở Yên Bái), nhà nửa sàn nửa đất (người Dao đỏ ở Tà Phìn, Sapa) và nhà đất. Ngày nay xã hội phát triển, những nét đặc trưng về nhà của người Dao cũng phai nhạt dần. Nhà ở của người Dao là các kiểu vì kèo và một yếu tố khác vô cùng quan trọng là tổ chức mặt bằng sinh hoạt. Bởi vì sự khác biệt giữa nhà ở của dân tộc nước ta chủ yếu ở hai yếu tố đó, còn yếu tố khác chỉ là thứ yếu.
Người Dao quần chẹt
Người Dao Thanh Y ở Quảng Ninh
- Các Dân Tộc Tây Bắc
- Dân tộc người Mường
- Dân tộc người Thái
- Dân tộc người H'mông
- Dân tộc người Tày